Giới thiệu sách
Bang Giao Việt- Thanh Thế Kỷ XIX (Bìa Cứng)
Một khảo cứu mới của TS. Nguyễn Duy Chính, đầy ắp thông tin về một giai đoạn éo le của lịch sử cận đại Việt Nam. Bài này sẽ được in trong sách QUAN HỆ VIỆT - THANH THẾ KỶ XIX: TƯ LIỆU VÀ BÌNH LUẬN, do Tao Đàn Thư Quán liên kết với Nxb Tổng hợp TPHCM xuất bản, sẽ phát hành vào tháng 4/2022.
TỪ TỜ CHIẾU CẦN VƯƠNG ĐẾN LÁ THƯ CẦU VIỆN CỦA VUA HÀM NGHI
Bài của TS. NGUYỄN DUY CHÍNH
1. CHIẾU CẦN VƯƠNG
Ngày mồng 9.4. 2018, công ty La Gazette Drouot tại Paris có bán đấu giá một số cổ vật Đông Dương trong đó có một tờ chiếu của vua Hàm Nghi kêu gọi người dân Việt Nam hợp lực nổi lên đánh đuổi người Pháp với giá phỏng định khoảng 5.000 đến 8.000 euro.(1)
Từ những chi tiết kèm theo thì từ một bản dịch năm 1890, tờ chiếu này có nhan đề Grande Proclamation Imperiale Dressee Aux Officiers Et Aux Masses Populaires De La Resistance Du Sud (Chiếu gửi quan dân nổi dậy ở miền nam) được ban bố ngày mồng 1 tháng Sáu năm Hàm Nghi 5 nhằm ngày mồng 3 tháng Juillet năm 1889 dương lịch, nội dung vua Hàm Nghi gửi lời kêu gọi nổi lên chống Pháp với sự giúp đỡ của nước Đức (L’ Empereur Ham Nghi, Lance Un Appel A La Resistance Contre La France Avec L'aide De l’Allemagne). Tờ chiếu này do nhà cầm quyền Pháp lấy được năm 1889.
Ngoài chiếu thư, chúng tôi cũng phiên dịch một văn bản khác yêu cầu nhà Thanh giúp cho việc thiết lập một căn cứ ở Bảo Lạc, Mục Mã là đất giáp với tỉnh Quảng Tây của Trung Hoa để làm nơi nương náu. Cứ như nội dung và sự tình lúc bấy giờ, việc tìm một mảnh đất “hương hỏa” có thể coi như biện pháp sau cùng của triều đình Hàm Nghi, tương tự như gần 100 năm trước khi người nhà Lê xin vua Càn Long yêu cầu vua Quang Trung dành cho họ một nơi nương náu, không khác gì nhà Mạc thuở nào xin nhà Minh một mảnh đất ở Cao Bằng để dung thân mà không bị đối phương làm hại.
So sánh với hoàn cảnh chung của những triều đại thất thế, từ Mạc, Lê, Tây Sơn, Nguyễn thì chúng ta thấy tất cả đều đi theo giải pháp “chạy sang Tàu cầu cứu” và nếu việc nương nhờ quân sự không khả thi thì biện pháp sau cùng là xin cho một vùng ở sát biên giới hương khói tổ tiên.
Xuyên qua lý giải này, chúng ta có thể nhìn lại tờ chiếu Cần Vương mà người Pháp tìm thấy và cảnh ngộ của những vong thần nhà Nguyễn đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn khi an tháp ở Trung Hoa. Cho nên, việc nhận định về hai văn bản này đều dựa vào hoàn cảnh thực của những người soạn thảo - tức nhóm Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Quang Bích - chứ không liên quan gì đến bản thân vua Hàm Nghi, khi đó đang ở trong tay người Pháp và không còn liên lạc gì với các nhóm Cần Vương đang hoạt động.
1.1. Đính chính một vài sai lầm
Những chi tiết trên thông cáo trong quảng cáo của La Gazette Drouot có vài điểm cần đính chính. Theo ngày tháng đề trên tờ chiếu chúng tôi đọc được thì là ngày mồng 6 tháng Sáu năm Hàm Nghi thứ 5 (chứ không phải ngày mồng 1). Trên những văn thư quan trọng số 6 (六: lục) đều dùng chữ lục kép (陸) để người khác không thể chữa được. Chữ này khác với chữ nhất kép (壹) mà người ta đã đọc nhầm. Sở dĩ tờ chiếu được xem là kêu gọi người nổi dậy ở phương nam vì nội dung bao hàm ý là nhà vua đã chạy được sang Trung Hoa và từ đó gửi lời hiệu triệu cho thần dân ở trong nước.
Cũng một chữ khác, Đức quốc trong bản văn mà nhà vua nêu ra không phải là nước Đức ở Âu châu (Allemagne) mà là một chữ tôn xưng Trung Hoa. Đức có nghĩa là vĩ đại, tương tự như Đức Phật, Đức Chúa… mà người ta vẫn gọi. Chỉ cần suy nghĩ bình thường chúng ta cũng loại trừ được khả năng triều đình Hàm Nghi có thể sang Đức cầu viện trong lúc này.
Sửa lại những chi tiết về ngày tháng, chúng ta có thể kết luận rằng tờ chiếu này được ban bố ngày mồng 6 tháng Sáu năm Hàm Nghi thứ 5. Theo Đại Nam thực lục, đệ ngũ kỷ, quyển V thì ngày Quí Mùi (tức ngày 11) năm Giáp Thân (1884) tháng Sáu, mùa hạ “quần thần rước tự quân đến điện Cần Chính nhận bảo tỉ truyền quốc và áo bào muôn năm nối ngôi, dâng thư rước lên ngôi vua … Giáp Thân (tức ngày 12), Tự quân lên ngôi ở điện Thái Hòa, lấy sang năm là Ất Dậu (1885) làm năm Hàm Nghi thứ nhất, ban bảo chiếu cho khắp trong ngoài …”.(2)
Tính ra như thế, ngày vua Hàm Nghi lên ngôi là ngày 11 tháng Sáu năm Giáp Thân, nhằm ngày mồng 1.8.1884. Ngày tờ chiếu này được ban bố là ngày 6 tháng Sáu năm Hàm Nghi 5 (Kỷ Sửu), nhằm ngày 3.7.1889. Tuy nhiên, vua Hàm Nghi đã bị Pháp bắt từ cuối năm 1888 mặc dầu ngày được ban bố có thể khác với ngày đã soạn tờ chiếu này.
Sử nước ta chép rằng vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết và các người thân tín đưa vào trong rừng núi vùng biên giới Lào Việt để tổ chức một chiến khu. Sau mấy năm lẩn trốn trong rừng, vua Hàm Nghi bị nội gián nên người Pháp đã tập kích và bắt được ông rồi đem sang Algérie an trí. Ông ở đây cho đến khi qua đời.
Vua Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, họ Nguyễn Phúc nhưng khi lên ngôi thì lấy theo kim sách qui định từ thời Minh Mạng nên lấy tên là Nguyễn Phúc Minh gọi là “lễ thay tên”.(3) Ông cũng còn một biệt hiệu tự đặt khi vẽ hay viết là Tử Xuân. Theo Amandine Dabat trong Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger (Paris: Sorbonne Université Presses, 2019), căn cứ trên một bản báo cáo của đại uý Boulangier là người chỉ huy cuộc vây bắt thì vua Hàm Nghi bị bắt ngày 29.10.1888 mặc dù tài liệu Việt Nam có những ghi chép khác hơn.(4)
Sau khi bị bắt, vào khoảng ngày 22.11.1888, vua Hàm Nghi bị đưa đến Thuận An để Viện Cơ Mật xác định được chính là ông rồi từ đó ông bị đưa đi Đà Nẵng đêm hôm 24.11.1888. Từ lúc bị bắt, nhà vua giữ im lặng, không xưng tên hay biểu lộ thân thế của mình. Vì ông không nhận mình là vua Hàm Nghi nên người Pháp phải cho gọi những người trong triều, các thị thần và thân nhân đến nhận diện.(5) Để ngụy trang, ông vua trẻ làm như một người dân thô lỗ không biết lễ nghi triều đình nhưng người Pháp có hơn một cách để xác định chính là cựu hoàng. Lúc đầu họ định an trí ông ở Saigon để ông đứng ra kêu gọi những nhóm cần vương giải tán nhưng sau đó thấy việc đó có thể gây ra bất lợi nên họ đưa ông sang Algérie.
Tuy dùng niên hiệu Hàm Nghi, những dụ chỉ hay hịch văn của nhóm người theo ông vào lập chiến khu trong rừng thường không phải do ông ban bố. Khi chạy ra khỏi hoàng thành, nhà vua mới có 14 tuổi, mọi việc đều ở trong tay quan phụ chính Tôn Thất Thuyết nên chúng ta hãy coi như đây chỉ là nhân danh, dù đúng, dù sai ông cũng không dự phần.
1.2. Diễn tiến giao thiệp với nhà Thanh
Khi vua Hàm Nghi xuất bôn, những người đi theo liền phát hịch đi các nơi kêu gọi dân chúng nổi lên đánh Pháp. Ngày 16 tháng Một năm Quang Tự 11 (1885), vua Hàm Nghi sai Hoàng Tá Viêm (黄佐炎), Nguyễn Quang Bích (阮光碧) đem quốc thư chia làm hai đường sang Vân Nam và Quảng Tây để báo với nhà Thanh và xin giúp đỡ.
Cuối năm Ất Dậu (1885) quan nhà Thanh đã biết tin về biến động tại Huế. Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động điện cho Tổng Lý Nha Môn ở Bắc Kinh: “Hàm Nghi mới dời ra Cam Lộ, lại chạy sang phủ Trấn Trại, nghĩa quân nổi lên khắp nơi, giáo dân cũng chống lại người Pháp”.(6)
Tổng đốc Vân Quí Sầm Dục Anh, và nội các học sĩ Chu Đức Nhuận tâu lên:
“Cứ như thượng thư bộ Lễ của Việt Nam là Nguyễn Quang Bích kể ra thì Việt Nam đã suy tôn con nối nghiệp là Nguyễn Phúc Minh bị người Pháp ép đuổi đi nên chạy sang Quảng Trị, hiệu triệu chư quân ứng nghĩa ở Bắc Kỳ để cố sức hưng phục, rồi lại chạy ra Nghệ An, Hà Tĩnh, chặn giữ những nơi hiểm yếu để cố thủ, dân chúng đi theo càng nhiều. Người Pháp biết thần dân hạ quốc chưa quên chủ cũ, khó mà tự lập nên đến tháng Tám, Quang Tự 11 (1885) cùng với bọn phản thần Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Hữu Độ ủng lập con nhỏ của tiên quốc vương là Nguyễn Chánh Mông, chiếm cứ Phú Xuân, cải hiệu Đồng Khánh nhưng dân chúng không theo”.
Nguyên tổng đốc Sơn Hưng Tuyên sung hiệp thống quân vụ của Việt Nam là Nguyễn Đình Nhuận (阮廷潤), nguyên Lạng [Sơn] [Cao] Bằng tuần phủ sung tham tán sự vụ Lã Xuân Uy (呂春葳), Sơn Tây tuần phủ tham tán quân vụ Nguyễn Văn Giáp (阮文甲)… cùng với các thân hào kỳ lão ở Bắc Kỳ cũng gửi thư cầu xin Trung Quốc viện trợ để mưu tính việc khôi phục.
“… Bọn chúng tôi phụng mệnh vua của hạ quốc, tập hợp thân hào trung nghĩa ở Bắc Kỳ, tuỳ cơ mà đánh hay giữ, nay lo liệu lương thực để đợi thiên binh.
Hiện nay sĩ dân các tỉnh của hạ quốc là Bắc Ninh, Sơn Tây, Hải Dương, Nam Định, Hưng Yên hưởng ứng, hễ chúng đưa phu dịch đi chuyên chở binh lương đều không ai chịu theo. Còn như các binh lính đã chiêu mộ và phủ huyện thuộc về chúng nay cũng đều quay về. Gần đây ở Thạch Sơn, Cảnh Lộc mấy lần thắng được địch, họp thành đoàn tập luyện, liên lạc lẫn nhau để cùng làm việc. Người Pháp ra lệnh nhưng không nghe theo, từ Nghệ Tĩnh về phía nam, sĩ dân các tỉnh đều nổi lên chiếm giữ các nơi để chia thế của giặc.
Liên tiếp có quốc tang, vua trẻ kế vị, nguy thay sáng không lo nổi buổi chiều, chỉ sợ một ngày sụp đổ, để thiên triều phải lo, chống đông, đỡ tây, không được ngày nào rảnh tay. Lại thêm giống người kia tìm đủ cách để chặn đường sứ giả, e rằng bầy tôi nước Sở khóc đấy nhưng không được khóc ở sân nước Tần, chim nhạn đất Lỗ ai oán kêu than, nhưng đâu vang tới tận nước Tấn?
Quốc vương nước tôi một thân mang nặng trách nhiệm triều đình xã tắc, đâu có thể ngồi mà chờ mất, đành phải chạy ra mà lo giữ nước”, “như bọn kẻ dưới chúng tôi, nước vỡ vua dời đi, phận mình chỉ còn một cái chết, thế nhưng chưa dám chết, vì chưng vua cũ trước đây, một lữ có thể lấy lại nước, nghìn nhà có thể còn nước Việt, dựa vào núi non hiểm trở để cùng với quốc vương nước tôi lo việc sống còn”. Nếu như “đại binh sớm tới, mặt trời lại lên, không phải chỉ là quốc vương nước tôi, mà miếu xã cũng được trở lại vậy”.(7)
2. LÁ THƯ CẦU VIỆN
Hiện nay, trong bộ Trung Pháp Việt Nam giao thiệp đáng còn có những văn bản của triều đình Hàm Nghi liên lạc với nhà Thanh.( Theo những chi tiết, chúng ta thấy có hai giai đoạn mà mỗi thời kỳ thì sự trông đợi của nhóm Tôn Thất Thuyết có khác.
Khi vừa đem triều đình chạy ra Quảng Trị, Tôn Thất Thuyết liền cho người sang cầu viện nhà Thanh, yêu cầu họ xuất quân đánh Pháp để quân Việt Nam hưởng ứng và nổi lên ở trong nước, tạo ra thế người Pháp phải đối phó với sự chiến đấu ở nhiều nơi. Đó là nội dung tờ bẩm ngày mồng 6 tháng Một, năm Ất Dậu (1885).
2.1. Tờ bẩm của vua Hàm Nghi xin nhà Thanh xuất quân giúp đánh Pháp (tháng Một, Ất Dậu 1885)
Ngày mồng 6 tháng Chín (năm Quang Tự 12, 1886), tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động gửi tấu thư lên Thanh triều trong đó có chép lại một số văn thư của “triều đình lưu vong” và một tờ bẩm của quốc vương Nguyễn Phúc Minh, có lẽ đây là bản đầu tiên [viết từ tháng Một năm Ất Dậu (1885) và do các quan chuyển sang Trung Hoa tháng Giêng năm Bính Tuất (1886)]. Khoảng nửa năm sau, không thấy hồi âm, các quan Việt Nam ở miền bắc [có lẽ theo lệnh Tôn Thất Thuyết] lại gửi sang một tờ bẩm để nhắc lại lời thỉnh cầu, trích lục ra như sau:
… Con thừa tự của tiên quốc vương nước Việt Nam Nguyễn Phúc Thì là Nguyễn Phúc Minh kính cẩn bẩm lên Quảng Tây phủ bộ viện thiên triều đại nhân các hạ xem xét. Xét hạ quốc vốn được thiên triều vun trồng, ban cho chức phận một phương đã mấy trăm năm qua. Tiên phụ Minh tôi là Nguyễn Phúc Thì đã bị bệnh qua đời vào tháng Sáu năm Quang Tự 9 (Quí Mùi, 1883), người trong hạ quốc đưa em ông ta là Nguyễn Phúc Thăng (阮福昇) [Hiệp Hòa] trông coi việc nước, được bốn tháng, Nguyễn Phúc Thăng tự thấy thân thể bệnh tật không kham nổi nên nhường lại cho con kế nghiệp của cha tôi là Nguyễn Phúc Hạo (阮福昊) [Kiến Phúc] lên kế nghiệp, đó chính là thân huynh của Minh vậy.
Ấy là vào tháng Sáu và tháng Một năm Quang Tự 9 (Quí Mùi, 1883), mọi việc đã bẩm lên cho tổng đốc Lưỡng Quảng đại nhân và Vân Quí đốc bộ đường đại nhân khẩn khoản xin đề đạt cửu trùng ở xa không biết đã lên tới chưa.
Đến tháng Sáu năm Quang Tự 10 (Giáp Thân, 1884), tiên huynh của Minh là Nguyễn Phúc Hạo bị bệnh chết, di chúc cho Minh theo thứ tự mà lập nên, nối tiếp sự nghiệp của cha Minh, lo liệu việc nước để đợi ân mệnh.
Nay các tỉnh ở Bắc Kỳ của nước tôi đều bị người Pháp chiếm cứ, cửa biển dọc theo duyên hải đều bị họ phong cấm, thuỷ lục đều bị bế tắc, nạn gấp của hạ quốc, không thể bề trên không nghe đến. Thế nhưng trong mấy năm qua người Pháp thường gây sự với hạ quốc, tháng Bảy năm Quang Tự 9 (Quí Mùi, 1883), toàn quyền Pháp Hà La Mang (Harmand) đem binh thuyền xông vào bên ngoài đô thành của hạ quốc là cửa biển Thuận An, công phá các đồn luỹ, ép phải ký hiệp ước 27 điều khoản để đổi điều ước cũ năm Giáp Tuất (1874).
Khi đó tang sự của tiên phụ vương Minh này là Nguyễn Phúc Thì chưa xong, trong ngoài đều sợ không thể không theo. Đến tháng Năm năm Quang Tự 10 (Giáp Thân, 1884), tiên huynh vương của Minh [Kiến Phúc] đang lúc bệnh nặng, toàn quyền Pháp là Ba Đức Na (Patenôtre) lại đem thêm binh thuyền vào cửa Thuận An, bộ binh đột nhiên tấn công đô thành của hạ quốc, ép đổi lại hoà ước khác thay cho các điều khoản Hà La Mang đã định, lại ép lấy nguyên phụng tích phong quốc ấn đem nấu chảy. Y lại ép phải cho đem binh vào đóng ở trong thành nội và phế bỏ quan lại đang ở các tỉnh Bắc Kỳ, ép mấy vạn dân đinh xua ra chiến địa.
Mấy lần binh của thiên triều sang giúp đỡ thì hễ đến nơi nào, hoặc là lương thực trên đường đi, hoặc theo quân để nấu ăn, hoặc thông hỏi tin tức để do thám thì đầu bắt hết một lượt, dân chúng nhiều phần bị thiêu giết cực tàn khốc. Người Pháp ở nước tôi lúc đầu tàm thực, sau muốn nuốt chửng. Mấy năm nay nhờ có thiên triều ra lệnh cho tướng đem quân qua để chủ trì nên họ cũng còn có chỗ e dè, đến khi thua trận mấy lần nên đành phải xin hoà và được chấp thuận, tưởng bọn họ sẽ mãi mãi không còn dám đè nén hạ quốc, mà tuân theo những điều khoản trong hoà ước, thế thì vua tôi hạ quốc cũng thật may mắn vậy.
Nào ngờ bọn họ nhân thế mà đắc chí, tháng Năm năm nay (Ất Dậu, 1885), đô thống của họ đột nhiên tăng thêm binh thuyền đưa tới, hợp với những thuyền đã có từ trước, tính chuyện bức chiếm để bảo hộ. Từ đó hành hoành hung bạo, thế không nhịn được nữa nên ngày 22 tháng đó cùng với bọn họ giao chiến, ước chừng 4 giờ, giết được số đông bọn chúng. Không ngờ chúng bắn đại pháo kịch liệt, sức của hạ quốc không chống nổi nên phải dẫn bầy tôi, chạy ra các tỉnh dựa vào núi mà đóng quân, kêu gọi dân chúng, bầy tôi trong nước lo chuyện chống lại.
Đến tháng Sáu (Ất Dậu, 1885) lập tức gửi thư kể rõ tình trạng bẩm lên quí phủ bộ viện đại nhân, cùng với Vân Quí đốc bộ đường đại nhân, cứ thực tình mà xin giúp đỡ. Thế nhưng đường sá khó khăn, e rằng chưa tới được. Nay Minh này đang đóng trong vùng núi non tỉnh Hà Tĩnh [cách Bắc Kỳ bẩy tám ngày đường], thân hào các tỉnh đều thiết tha nhớ cũ nên đều tụ tập nghĩa binh đứng lên. Từ Thanh Hoá, Ninh Bình trở về bắc thì bị binh thuyền của họ chiếm cứ, hiệu lệnh khó thi hành nên sức lẻ loi khó mà tự lập, vậy mong tích phong quốc ấn như tổ tiên ông cha của Minh này từng nhận của thiên triều vậy.
Khi anh của Minh còn tại thế, quốc ấn cũng không giữ được, nay lại không bảo vệ được đô thành, đắc tội rất nhiều. Gần đây người Pháp lại ủng lập người khác lên làm quốc trưởng, cùng ở đô thành, mọi điều khoản đều tuân theo, thật là khinh khi coi rẻ tiểu quốc. Lại dám khinh mạn giềng mối của thiên triều, thật công pháp của các nước không thể nào dung tha được. Minh tuy tuổi còn nhỏ nhưng cũng còn chút trí năng, không thể không cố gắng. Thế nhưng đang lúc bôn ba nếu không dựa vào cái đức tái tạo của thiên triều thì không thể nào mưu tính gì được.
Vậy trông lên quí đại thần xem xét cái tình hình bức thiết của nước dưới, theo như thế mà thay mặt tâu xin cho, may được dụ chỉ chấp thuận mà ra lệnh cho tướng xuất quan, kể tội đánh dẹp. Hạ quốc nguyện hết sức đem quân sĩ mà đi theo. Lại mong được xá tội ban cho phong chương (quốc ấn phong cho) để dựa vào ân sủng mà hiệu lệnh người trong nước, thu phục cương thổ để được mãi mãi làm ngoại phiên mà giữ vững được lòng nhân nuôi nấng kẻ nhỏ của thiên triều, cái nghĩa cứu kẻ bị tai ương, vỗ về người bị nạn. Như thế thì không phải chỉ một mình Minh này ghi lòng tạc dạ không quên, mà trăm họ hạ quốc cũng đều đội ơn vô hạn vậy.
Nay xin hết lòng thành thật giãi bày tội để xin lệnh trên, tự biết là mạo muội quấy rầy, gửi thư không khỏi không trông ngóng. Thêm nữa quốc ấn đã bị bọn chúng ép lấy mất rồi nên điểm chỉ để giao cho tỉnh Lạng Sơn đệ nạp cho khỏi trở ngại mong được xét đến mà sớm ban cho phúc thư. Nay cúi bẩm.
Quang Tự 11 (Ất Dậu, 1885), ngày mồng 6 tháng Một.
Nguyễn Phúc Minh.(9)
2.2. Tờ bẩm xin được cho sống tại Mục Mã, Bảo Lạc (khoảng nửa sau năm Bính Tuất, 1886)
Theo lời trình của Trương Chi Động thì tiền tổng đốc Sơn Tây của Việt Nam là Nguyễn Đình Nhuận (阮廷潤) đã sai người là Vũ Khắc Khoan (武克寬) thay mặt đem sang Quảng Tây một tờ bẩm nhân danh các quan ở Bắc Kỳ nhưng có lẽ là lời của Tôn Thất Thuyết (con dấu tham tán quân vụ), nguyên văn như sau:
“… Tiền tỉnh lại Sơn Tây của Việt Nam là Nguyễn Đình Nhuận, tỉnh lại của Lạng Sơn là Lã Xuân Uy (呂春葳), tỉnh lại Cao Bằng là Nghiêm Xuân Phương (嚴春芳) cúi bẩm lên viên môn tổng đốc Lưỡng Quảng thiên triều Trương đại nhân xem đến.
Hạ quốc hồi tháng Năm năm ngoái (Ất Dậu, 1885) bị người Pháp áp bức nên tự quân nước tôi phải chạy trốn, đã đem tình hình do tổng đốc Vân Quí và tuần phủ Quảng Tây bẩm lên đề đạt nhưng chưa nhận được ân mệnh. Tháng trước ở sơn phòng tỉnh Hà Tĩnh, lại soạn văn bản tuân theo lệ bẩm lên phủ bộ đường tỉnh Quảng Tây.
Đầu năm nay ngày mồng 6 sai người mang đến, bọn hạ chức tuân lệnh phụng nạp rồi sau đó chờ ở Nam Quan nhưng chưa được trả lời, sợ rằng sự việc khẩn cấp chưa đề đạt lên. Tự quân nước tôi chiêm ngưỡng lòng thành thiết tha, không thể tự kêu xin, bọn kẻ dưới nay sao nguyên văn bẩm lên do cung bảo Phùng [Tử Tài] chuyển lên quí bộ đường xem xét mong được coi đến.
Hạ quốc gặp phải nhiều nạn, thần dân không ai là không đau lòng, có điều như lửa cháy tới áo, khó mà tự mình lo liệu được. Tháng Một năm ngoái (Ất Dậu, 1885), bọn chúng tôi cũng đã sai người mời đón tự quân đến vùng Mục Mã, Bảo Lạc, giáp với nội địa, dựa dẫm vào uy linh của thiên triều để mưu tính việc khởi sự lần nữa. Nào ngờ vùng đó hiện nay bị lính dõng địa phương chiếm cứ quấy nhiễu, nhà buôn Mục Mã là Lương Tuấn Tú (梁俊秀) đã dùng lời khuyên nhủ nhưng cũng không đến đâu.
Tự quân nước tôi sống ở Hà Tĩnh đã lâu, súng ống không có cách nào mua được nên muốn đến vùng biên giới Bắc Kỳ, nhưng không có một tấc đất nào yên ổn, sự thế nguy khốn quẫn bách như thế, mong cái lòng bao trùm khắp nơi của hiến đài mà không nhẫn tâm ruồng bỏ. Ngoại trừ bẩm riêng lên phủ bộ viện Quảng Tây xem xét, cũng liều mạo muội bẩm lên để mong chiếu cố tính toán mà tự quân nước tôi được dựa vào những vùng nội địa giáp với Mục Mã, Bảo Lạc thuận tiện cho việc điều động thần dân khôi phục nước cũ mà lệ thuộc vào thiên triều để làm phên giậu lâu dài thì hạ quốc rất là mong mỏi vậy.
Nếu như trông xuống mà thuận cho lời thỉnh cầu này thì xin mau trả lời rõ để dựa vào đó mà chuyển đạt cho tự quân nước tôi tuân theo biện lý. Tình hình nước tôi đang nguy cấp, lời lẽ không được mạch lạc, mong được lượng thứ cho”.(10)
Xem lá thư trước, chúng ta biết được triều đình Hàm Nghi đã yêu cầu nhà Thanh một số điểm sau đây:
- Xin lại một quốc ấn đã bị nấu chảy ngày 6.6.1884 (13 tháng Năm, Kiến Phúc nguyên niên)(11) để thừa kế vai trò phiên thuộc với nhà Thanh.
- Xin nhà Thanh cho quân sang, quân Cần Vương sẽ tiếp tay để cùng chống Pháp.
- Yêu cầu này được viết từ cuối năm Ất Dậu (1885) và gửi sang nhà Thanh đầu năm Bính Tuất (1886) nhưng không được phúc đáp. Chỉ trong khoảng một năm, chúng ta cũng thấy một số biến chuyển như sau:
- Năm 1885, vua Hàm Nghi chỉ yêu cầu quân Thanh tiến sang và nghĩa binh sẽ nhất tề hưởng ứng nhưng căn cứ của triều Nguyễn vẫn còn ở Hà Tĩnh gần kinh đô.
- Năm 1886, khi tình hình càng lúc càng quẫn bách, theo tính toán của Tôn Thất Thuyết, ông có ý định lập một căn cứ chiến đấu ở biên giới Trung Hoa rồi di chuyển vua Hàm Nghi lên Bảo Lạc để tiện việc phối hợp lực lượng.
3. AN THÁP NHÓM CẦN VƯƠNG
3.1. Đường lối giải quyết của tổng đốc Lưỡng Quảng
Tuy nhiên, báo cáo của Trương Chi Động lên Tổng Lý Nha Môn vẫn chỉ là tin tức nội bộ của họ, còn việc trợ giúp cụ thể như thế nào cho nhóm Cần Vương của Việt Nam thì nhà Thanh vẫn không hề lên tiếng, chỉ khuyên đãi bôi là nên cố gắng để có một nơi thờ cúng tổ tiên ở trong nước.
“… Xét rằng Việt Nam từ lâu từng là phiên phong, vốn là thần tử của thiên triều. Từ thời Hàm Phong, Đồng Trị đến nay, nước đó mấy lần có giặc giã đều phải nhờ vào vương sư [quân Thanh] tiến đánh tiễu trừ được cả, phù lúc nguy, định lúc nghiêng, nước ta chưa ngày nào quên chuyện đó. Thế nhưng quốc vương nước kia mờ tối [chỉ vua Tự Đức] không biết cai trị giữ nước, năm trước từng cùng người Pháp mấy lần lập minh ước riêng, dần dần ra khỏi phên giậu, mất đất bại binh, tự gây hoạ hoạn.
Năm trước Điền Quế ra quân, bản bộ đường tuân theo dụ chỉ ra sức trù liệu kế sách cho Việt Nam, đưa quân vận lương, tính toán đủ đường nhưng nước kia chẳng hề sai một người, lo một xu đến trước quân bày tỏ bàn tính việc hai bên giáp công. Đợi đến khi đại binh phá địch ở Nam Quan, khắc phục Lạng Sơn, Trường Khánh, cũng không tập hợp nghĩa binh, hiệp trợ quan quân thừa cơ đánh giặc. Trìều đình không nỡ để cho sinh linh phải chịu chinh chiến lâu năm nên mới bằng lòng cùng người Pháp bàn việc nghị hoà, nay cục thế đã định, nước đó đã thuộc về người Pháp bảo hộ.
Gần đây thế vẫn không lên thêm được nên mới bắt đầu xin cứu giúp, xét theo tình cảnh thì thật là đáng thương nhưng cơ hội đã đánh mất rồi, không thể bổ cứu được, minh ước đã rõ ràng đâu có thể nào nói khác được. Việc xin vùng Bảo Lạc, Mục Mã để cho quốc vương nước kia cư trú vốn không có trong điều ước, bản bộ đường thật e ngại không dám tâu lên xin, chỉ có thần dân ở nước kia tính đức lượng sức, đồng tâm hiệp lực cố mà duy trì để giữ được nơi tế tự.
Còn như việc quan Việt Nam là Vũ Khắc Khoan đường sá xa xôi đến đất Việt [tỉnh Quảng Tây] thì trông xuống cái ý hoài nhu của triều đình nên đã cho doanh vụ xứ truyền dụ đến quan nước kia biết rõ ràng, vỗ về cho ổn thỏa, cấp cho lộ phí, sai biền binh hộ tống. Lại phát cho viên quan Việt Nam một tấm hộ chiếu chuyển cho nhận lãnh rồi ra lệnh theo đường biển đến Liêm Châu, từ Thượng Tư, Ninh Minh đi Long Châu trở về Việt Nam. Lại do ti đạo chuẩn bị văn thư trả lời cho tiền tổng đốc Sơn Tây nước đó là Nguyễn Đình Nhuận biết. Hịch này ngoài việc phê phát ra cũng tư trình tương ứng lên quí nha môn, kính cẩn xin tra chiếu thi hành. Chiếu lục niêm đơn”.(12)
Bản án chung thẩm mà Trương Chi Động gửi lên nhà Thanh, tựu trung cũng không khác gì những quan điểm cố hữu hường nhắc đi nhắc lại, từ việc Lê Duy Kỳ chạy sang Trung Hoa đến cách đối xử với anh em Nguyễn Quang Toản. Sau khi chặn hết mọi ngả để người Việt Nam không thể làm gì có thể phương hại đến tình hữu nghị mới giữa Pháp và Trung Hoa, họ Trương lại đưa ra một giải pháp đượm mùi nhân nghĩa của nước lớn. Đó là an tháp nhóm Tôn Thất Thuyết ở Quảng Tây.
3.2. Định cư nhóm Tôn Thất Thuyết
Có lẽ sau khi nghe tin vua Hàm Nghi đã bị Pháp bắt và tình hình càng lúc càng bi quan, Tôn Thất Thuyết và ban tham mưu của ông đành phải đánh nước bài sau cùng là lẻn sang Trung Hoa trực tiếp cầu viện. Không thấy tài liệu nào nói ông rời vua Hàm Nghi để ra đi từ bao giờ, chỉ biết rằng ông theo đường núi ra Thanh Hoá, ngược dòng sông Mã lên Lai Châu, sang Vân Nam và được tổng đốc Vân Nam đưa sang Quảng Tây. Những gì xảy ra sau đó được tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động tâu lên Thanh đình để trình bày việc nhóm người Việt Nam được an tháp ngay tại Long Châu. Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Chi Động [張之洞] gửi văn thư ngày mồng 8 tháng Một (11) [năm Quang Tự 15, 1889] nói rằng:
“Chiếu theo những việc từ trước, các quan Việt Nam Nguyễn Phúc Thuyết [阮福說], Trần Xuân Soạn [陳春撰], Nguỵ Khắc Kiều [魏克喬], Trần Chi Đống [陳之棟], Hồ Quỳnh [胡瓊] dẫn theo binh dịch 10 người đến tỉnh Việt [Quảng Đông, Quảng Tây] khai rằng bị người Pháp giảo quyệt khinh thị, hung hăng càn rỡ, bắt bớ trả thù nên vì thế mà phải đề đạt lên xin giúp đỡ. Việc này đã bàn luận từ lâu và định rằng khó có thể chuẩn thuận được nên đã sức cho cục phát ngân 500 lượng và ra lệnh cho lập tức quay về nước.
Thế nhưng quan nước Việt bẩm rằng đường đi khó khăn không cách nào trở về được nữa nên xin ở lại Khâm châu tuỳ tiện sinh sống, cấp cho lương ăn khỏi đói khổ. Nay việc hoạch định biên giới ở Khâm châu đã hoàn thành mà vùng giáp Hoa - Việt thì kẻ cướp qua lại rất nhiều nếu như bảo họ đến đây sinh sống thì việc phòng phạm khó mà chu toàn e rằng sẽ sinh rắc rối.
Thế nhưng đám quan nước Việt kia nay vào đường cùng không còn chỗ nào về không thể không rộng lượng cho an tháp nên đã ra lệnh cho tạm sống ở trong tỉnh và sức cho cục cấp phát cho họ đồ ăn và tiền tiêu vặt, mỗi tháng tất cả 57 lượng 3 tiền 6 phân. Lại ra lệnh cho phó tướng chịu trách nhiệm hiệp Quảng Châu phái binh dũng đến nơi các quan người Việt ở đi tuần tra xét, không để cho họ được qua lại lai vãng với người ngoài, nay những người Việt đó sinh sống tại tỉnh cũng đã yên thân.
Có điều khuôn viên tỉnh lại gần kề với cửa biển nơi mà người Trung Hoa người Tây Dương lẫn lộn, ở tại trong vịnh thì sáng tối lúc nào cũng có kẻ ra người vào, rất là phồn tạp, việc phòng phạm khó khăn, không thể không sinh chuyện nên không thể để tại Khâm châu mà nơi khác cũng khó an tháp. Chỉ có ở địa phương La Định là nơi không có đường đi thông suốt, hẻo lánh xa xôi mà dân chúng cũng hiền lành nên đã sức cho hiệp phó tướng Quảng Châu phái binh dũng hộ tống các quan Việt Nam đến nơi đó sinh sống và ra lệnh cho văn võ phụ trách ở tỉnh thành ước thúc đề phòng, phái binh lính luân chuyển tuần phòng quan sát, không để cho họ giao thiệp với những người qua lại hay từ bên ngoài đến đây. Lại cũng cấm không cho tự ý rời khỏi châu thành để đến ở một nơi khác.
Nhà cửa cho họ ở thì do châu đó thay mặt thuê mướn còn tiền ăn và tạp dụng mỗi tháng phát cho 57 lượng 3 tiền 6 phân và thêm cả tiền thuê nhà thì do châu ấy lấy tiền thuế quế mà cấp cho. Số người thì chỉ hạn cho 15 người lúc đầu đến đây không được tăng thêm. Tuỳ thời mà hiểu dụ bọn quan người Việt rằng nên biết an phận theo định mệnh chứ đừng mong mỏi chuyện giúp đỡ gì khác.
Vậy châu đó và doanh hãy thay phiên trông chừng, để họ khỏi bỏ đi mà không báo hay đến nơi khác gây rắc rối.
Còn việc các quan văn võ châu đó hỏi thì trừ việc phân biệt trên giấy tờ, các quan Việt (Quảng Đông, Quảng Tây) tương ứng theo danh hàm mà mỗi ngày cấp phát tiền ăn uống, tiêu pha theo danh sách trình lên.
Đây là danh sách gửi quí nha môn, kính cẩn xin tham chiếu để thi hành:
Chiếu lục niêm đơn, sao tên tuổi quan Việt Nam và người đi theo, cùng tiền ăn theo ngân số.
(xem bảng ở ảnh 7)
Tất cả trên đây tính cộng lại mỗi tháng tiền ăn là 51 lượng 6 tiền.
Mỗi tháng lại cấp cho tiền dầu đèn và lặt vặt 5 lượng 7 tiền 6 phân.
Tổng cộng chi mỗi tháng là 57 lượng 3 tiền 6 phân.(13)
4. KẾT LUẬN
Suốt trong mấy năm liền, nhóm Tôn Thất Thuyết vẫn lẩn trốn trong rừng, chia thành nhiều nhóm nhỏ khác nhau để tránh sự lùng bắt của Pháp và chờ đợi phản ứng từ phía nhà Thanh. Có lẽ với tin tức ít ỏi, những người kháng chiến Việt Nam không biết rằng nhà Thanh và Pháp đã giảng hoà và bận rộn với việc thi hành hiệp ước Thiên Tân (1885). Đến năm 1888 thì tình hình giữa người Pháp và Trung Hoa đã không còn thế đối đầu như hồi năm 1883 khi vua Tự Đức mới mất.
Sau những trận hải chiến khốc liệt ở ngoài biển Phúc Kiến và Đài Loan, nhà Thanh biết rằng họ không mạnh như đã tự lượng giá. Sự thất thế quân sự đưa nhà Thanh tới việc thoả hiệp với Pháp và từ bỏ can thiệp vào Việt Nam cũng là một trong những đổi chác có lợi cho họ, vừa ngoa ngôn với quốc dân rằng “chấp thuận cho người Pháp cầu hoà”, vừa nhân đó đòi hỏi một số yêu sách (như việc không phải trả chiến phí cho người Pháp, chuyển giao một số kỹ thuật về điện và đường sắt, và nhất là để đổi lấy một số ưu đãi thuế má và thương mại, người Pháp sẽ nhường cho họ một số đất đai ở Bắc Kỳ …)
Về phía quân cần vương, tâm lý mòn mỏi nên Tôn Thất Thuyết tìm cách vận động sức mạnh trong nước để chống Pháp xuyên qua việc quyên góp tài lực, vật lực nên đã tung ra bản chiếu thư làm như vua Hàm Nghi đã xuất bôn để phối hợp với quân Thanh ở mạn bắc và kêu gọi toàn dân yểm trợ chống Pháp ở phía nam. Tuy nhiên, thực tế không xảy ra như mong đợi, vua Hàm Nghi thì vì nội gián nên bị người Pháp bắt (khoảng tháng 10.1888) nên chúng ta có thể nghĩ rằng kế hoạch chỉ do Tôn Thất Thuyết và ban tham mưu tưởng tượng ra, căn cứ vào những hiểu biết của họ trong chính sách ngoại giao truyền thống với Trung Hoa.
Còn triều đình Hàm Nghi sau ba năm kháng chiến (1886 - 1889) thì càng lúc càng thêm bi đát. Những thư gửi sang Trung Hoa chỉ như hòn sỏi ném xuống biển hoàn toàn không thấy tăm hơi gì cả. Thực tế lúc đó, nhà Thanh đã ký hòa ước với Pháp và hai bên đang tiếp tục củng cố những giao ước sao cho có lợi nhất, không dại gì tiếp tay với nhóm cần vương của Việt Nam khiến Tôn Thất Thuyết phải đích thân chạy sang Tàu, nhân danh một phụ chính đại thần để xin giúp đỡ.
Những biến chuyển không đồng bộ, tin tức không cập nhật như việc vua Hàm Nghi đã bị bắt từ cuối năm 1888 và tờ chiếu Cần Vương tung ra cũng vào khoảng này khiến cho người sau cảm thấy hoang mang khi nhận định về giả thật của văn kiện, đồng thời kết án Tôn Thất Thuyết đã bỏ chạy để mưu cầu sinh lộ cho riêng mình.
Việc thất thủ kinh đô và những nỗ lực kháng chiến chống Pháp của triều đình lưu vong vẫn là một đề tài được nhiều tác giả nghiên cứu, cả về bản thân của ông hoàng lưu vong lẫn những người theo ông, kẻ bị giết, kẻ lưu lạc sang Trung Hoa.
Sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn, người Pháp nhanh chóng đưa lên một ông vua mới, dễ điều khiển hơn và bộ máy hành chánh Nam triều vẫn vận hành như một phó sản để hoạt động trên toàn cõi Việt Nam. Về phần nhà Thanh, sau một số đụng độ ở Bắc Kỳ và vùng biên giới Quảng Tây, họ mau chóng nhận ra rằng nếu đàm phán với người Pháp sẽ dễ dàng có thêm một số quyền lợi hơn là tiếp tục đi theo đường lối bí mật liên kết với Việt Nam để chống Pháp hồi cuối đời Tự Đức. Nhà Thanh khi nhắc đến người đứng đầu triều đình Huế cũng gọi là Việt vương (chỉ vua Đồng Khánh), còn một Nguyễn Phúc Minh (Hàm Nghi) thì trước nay họ chưa công nhận và cũng không có lý do gì để công nhận. Đối với nhóm cần vương thì việc ủng hộ của dân chúng cũng chỉ danh nhiều thực ít còn guồng máy quan lại nay ngả sang tân vương, tuy chỉ là một ông vua không có thực quyền nhưng ít ra cũng ban phát cho họ được một số bổng lộc.
Trong giao thiệp giữa Pháp và Trung Hoa, nay không còn đối đầu mà là tương nhượng, bận rộn với công tác thi hành các giao ước của hiệp ước Thiên Tân (1885) trong đó hai khoản quan trọng nhất là khám định biên giới và thiết lập các cửa thông thương giữa Bắc Kỳ với Quảng Tây, Vân Nam. Thế nhưng vì thiếu thông tin hay vì chủ quan vẫn tin vào lòng tốt của thiên triều, nhóm Tôn Thất Thuyết đánh liều vượt biên sang Tàu để toan làm việc “Thân Bao Tư khóc trước sân vua Tần” xin đem viện quân về phục quốc. Chúng ta lại thấy hình ảnh của nhóm Lê Quýnh ngày nào cũng đã từng có tâm tư như thế.
Ở Hà Tĩnh, vua Hàm Nghi bị quân Pháp xông vào rừng bắt sống và khi biết chắc rằng đây chính là ông hoàng mà họ đang tìm, nhà vua bị đưa sang Alger an trí. Ở Quảng Tây, việc dung túng cho nhóm nhà Nguyễn lưu vong hoạt động có thể đưa tới những bất lợi ngoại giao nên Trương Chi Động đưa những người chạy sang Tàu an tháp, với số lương đủ sống qua ngày.
Ngoại sử kể rằng, Tôn Thất Thuyết nay đã hoá điên, chiều chiều ra bờ sống chém vào những tảng đá nên người Tàu gọi ông là “trảm thạch công”. Khi ông qua đời, có người điếu một câu đối:
Thù nhung bất cộng đái thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng Quận
Hộ giá biệt tầm tĩnh địa, thiên niên tàn cốt táng Long Châu.(14)
(Thù giặc không đội trời chung, vạn cổ danh thơm còn nơi Tượng Quận
Phò vua riêng tìm đất lặng, nghìn năm xương tàn gửi đất Long Châu)
Câu trên có vẻ như khen sự quyết tâm chống Pháp của Tôn Thất Thuyết nhưng câu dưới xem ra có giọng dè bỉu khi nói ông “biệt tầm tĩnh địa”, bỏ vua mà đi lo riêng cho mình. Tuy nhiên xét về thời thế lúc đó, những người chạy sang Trung Hoa thực tế nay là những người tù giam lỏng nên có muốn làm gì cũng đành chịu và phẫn uất của họ không phải là điều đáng ngạc nhiên.
N.D.C.
-----
Phụ lục: Bản dịch Chiếu Cần Vương
Nguyên văn
皇猷大誥南忠官員黎庶週知。
咸宜伍年陸月初陸日。
這大誥密詔嚴正協勦宣誥。
朕
纉承大統,紹述鴻基。 國運屯蒙, 其賊子鯨。
吞勢甚漸。不可偷安。
玆焉密召諸臣。
入機密院。歃血誥誓。
期先攻破金城,次則長驅嘉定。 不意文詳懷二, 而甘露駕遷於此。
君臣再相告誓, 以圖恢復,計决他邦遊援。
朕
奚惜微驅,故不避山海之勞。 冐死親臨大德國求援。
事蒙伊國准允逕囘廣東。 接見官員, 會賚辨白。
朕心倍慰, 蒙恩仍命。 嚴正協勦, 奉旨密告。
凡在耳目, 共悉見聞,則水土之同仇。
不共戴天, 方議賢人, 君子閔辰志氣。
朕
今滅號假虞。
計定清夷早,憑于外國。 苐聚得多人, 無財何養。
朕獨憂之。 知南忠臣。
庶義宜出貲助國。 將名数列于金籍。
他日功成,照数倍還。而償金封户, 不吝原恩勉哉。
將士體此朕心。
欽哉。
Bản dịch:
Đại cáo về kế sách cho quan viên, dân chúng trung thành với nước Nam được biết
Hàm Nghi thứ 5, ngày mồng 6 tháng Sáu
Đại cáo bí mật tuyên chiếu đồng lòng nghiêm chỉnh tiễu giặc
Trẫm
Kế thừa dòng chính, tiếp nối nghiệp lớn, Gặp lúc vận nước truân chuyên.
Giặc mạnh dần dần thôn tính, Không thể ngồi yên.
Đành ban mật chiếu, Cho gọi các bầy tôi vào Cơ Mật Viện.
Cắt máu ăn thề
Trước tấn công vào kinh thành, Sau đó chạy về Gia Định.
Ngờ đâu
Văn Tường [Nguyễn] hai lòng, Cam Lộ đưa vào nơi ấy.
Vua tôi nay lại thề nguyền, Nhất quyết lo toan khôi phục.
Định kế sang nước khác xin giúp đỡ.
Trẫm không tiếc thân cỏn con, Chẳng ngại gian lao trèo non vượt biển.
Liều chết đích thân sang nước lớn cầu viện
May được nước kia bằng lòng, Chấp thuận cho về Quảng Đông.
Tiếp kiến quan viên, cùng nhau bàn bạc.
Trẫm trong lòng an ủi, Được lệnh nghiêm chỉnh cùng đánh giặc.
Nên nhận chỉ hãy bí mật cáo tri
Phàm những ai tai mắt có lòng hiểu biết, Ắt đất nước cùng một mối thù.
Không đội trời chung
Các hiền nhân quân tử có chí khí thương xót,
Trẫm nay kêu gọi giúp đỡ để thanh trừ di tặc, Quét sạch chúng ra khỏi nước.
[Thế nhưng] cần phải đông người, Không tiền tài lấy gì nuôi dưỡng.
Trẫm lấy làm lo
Nếu như bầy tôi trung nghĩa nước Nam, Ứng nghĩa đứng ra trợ giúp.
Để tên tuổi trong sổ vàng, Ngày sau công thành, sẽ chiếu theo sổ mà bồi hoàn lại.
Trả vàng, phong tước, Không quên ơn cũ.
Hãy gắng lên các tướng sĩ, Lòng trẫm như thế.
Khâm tai.
-----
Chú thích:
(1) Theo một nguồn tin cá nhân, tờ chiếu này lọt vào tay một người Việt Nam ở hải ngoại trong kỳ bán đấu giá này.
(2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Bản dịch của Viện Sử học, tập 9, (Hà Nội: Giáo dục, 2007), 97-98.
(3) Vua Minh Mạng cũng theo phương thức của nhà Thanh nên đặt ra đế hệ, phiên hệ cho các dòng con của mình. Những người được lên ngôi vua sẽ chiếu kim sách mà đặt tên khi đăng quang. Hai mươi chữ vàng là Triền (Thiệu Trị), Thì (Tự Đức), Thăng (Hiệp Hòa), Hạo (Kiến Phúc), Minh (Hàm Nghi), Biện (Đồng Khánh), Chiêu (Thành Thái), Hoảng (Duy Tân), Tuấn (Khải Định), Điển (Bảo Đại), Trí, Tuyên, Giản, Huyên, Liên, Chất, Tích, Yến, Hi, Duyên. Ưng Trình, Việt Nam ngoại giao sử (Sài Gòn : Văn Đàn, 1970), chú thích 2, 44-45.
(4) Amandine Dabat, Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger (Paris: Sorbonne Université Presses, 2019) 37-39; Cố Nhi Tân trong : Tôn Thất Thuyết (1943) [bản in lại 2015] thì ghi là 26 tháng Sáu, Mậu Tí (3.8.1888).
(5) Amandine Dabat, Sđd., 39.
(6) Điện ngày mồng 3 tháng Một, năm Quang Tự 11 (1885). Thanh quí ngoại giao sử liệu, q. 62, 16 (dẫn theo Long Chương)
(7) Long Chương, Việt Nam dữ Trung Pháp chiến tranh (Đài Loan thương vụ ấn thư quán, 1993). Chương 13, chú thích 52, 384, trích theo: A. Thomazi, La conquête de l’Indochine (Paris, 1934). 273-276. [Bản dịch Nguyễn Duy Chính].
(9), (10), (12), (13) Quách Đình Dĩ, Vương Duật Quân (chủ biên). Trung Pháp Việt Nam giao thiệp đáng (tập VI) (Đài Bắc: Trung ương Nghiên cứu viện Cận đại sử Nghiên cứu sở, 1983), (Quang Tự 12, 1886) 3594-3597; (Quang Tự 12, 1886) 3595-3597; (Quang Tự 12, 1886) 3594-3595; (Quang Tự 12, 1886) 3594-3595; (Quang Tự 15, 1989) 3808-3810.
(11) Xem Quốc Ấn, từ An Nam quốc vương đến Việt Nam quốc vương, biên khảo của NDC.
(14) Cố Nhi Tân, Tiểu truyện danh nhân: Tôn Thất Thuyết và những văn thân trong phong trào Cần Vương. (TPHCM: Hồng Đức, 2015), 25-6.
(Theo Ts Trần Đức Anh Sơn)
Thông tin tác giả Nguyễn Duy Chính
Ông sinh năm 1948 tại Sơn Tây, đi Nam cùng gia đình năm 1954, cựu học sinh Chu Văn An Sài Gòn, cựu sinh viên Quốc gia Hành chánh Sài Gòn, rời khỏi Việt Nam năm 1979, Tiến sĩ Quản trị kinh doanh Hoa Kỳ, hiện sống và làm việc tại California.
Cho tới nay, các thành viên của diễn đàn Việt Kiếm (vietkiem.com) vẫn không thể quên được cái tên Nguyễn Duy Chính, không chỉ như một dịch giả xuất sắc hầu hết các tác phẩm của đệ nhất tác gia kiếm hiệp Kim Dung, mà còn là tác giả của những bài viết hay về văn hóa Trung Hoa; và những thành tựu dịch thuật, nghiên cứu này đã bước vào… sách: Đọc Kim Dung – Tìm hiểu văn hóa Trung Quốc (NXB Trẻ, 2002), Lý thuyết quân sự Trung Hoa (dịch, NXB CAND, 2004).
Nhưng từ giai đoạn 2002-2003 tới nay, Nguyễn Duy Chính chuyển sang nghiên cứu Sử Việt, cụ thể hơn là Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn.
Nguyễn Duy Chính vào cuộc với cả một đời yêu sách, với trí tuệ và phương pháp nghiên cứu đúng đắn, với nhiệt tâm và cần cù. Ông kể, “cách đây gần 30 năm, khi vừa đặt chân lên đất Mỹ, kiếm được những đồng tiền đầu tiên, người viết đã đặt mua trả góp ngay một bộ Encyclopædia Britannica, thuở ấy với giá hơn 2.000 US$, bằng tiền mua một chiếc xe cũ còn tốt.”
Để nghiên cứu có kết quả, ông chuẩn bị tư liệu rất tốt, không kể những gì có thể khai thác từ Internet, ông tìm và mua bằng được những sách quí có liên quan từ Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; ông tìm đến tư liệu của các đại học danh tiếng ở Mỹ, bạn bè ở Pháp; những tư liệu Hán Nôm trong nước, đặc biệt là từ Viện nghiên cứu Hán Nôm.
Kết quả nghiên cứu của ông được công bố liên tục trên Internet và các tạp chí trong nước (Nghiên cứu & Phát triển của Sở KH&CN TT-Huế, Xưa & Nay…). Ông công bố, sửa chữa và lại công bố, nhiều lần. Có thể nói rằng, về căn bản, các cuốn sách đã xuất bản đều có thể tìm trên Internet. Phần rất mạnh của Nguyễn Duy Chính là ông đã tìm và sử dụng được nhiều tài liệu mới công bố từ nguồn nhà Thanh (Trung Quốc), làm thay đổi hẳn nhiều nhận định sử học từ trước tới nay.
Sách Bang Giao Việt- Thanh Thế Kỷ XIX (Bìa Cứng) của tác giả Nguyễn Duy Chính, có bán tại Sách Khai Trí với ưu đãi Bao sách miễn phí