Quăng Đời Mình Vào Chốn Thiền Môn
“Tôi sinh ra vào mùa gặt, cũng là mùa nước lũ. Người dân quê tôi dầm mình trong nước để gặt lúa chạy mưa với ông trời. Nước ngập trắng đồng và nước tràn vô nhà…
Ba tôi phải kết bè chuối lấy chỗ đặt để thau than hong cho má con tôi. Quê tôi vùng sông nước có nhiều đứa nhỏ vừa mở mắt chào đời đã gặp ngay lũ lụt như điềm báo trước cuộc đời vất vả nổi trôi…
Nhưng tôi may mắn được gặp ánh sáng Phật Pháp soi đường nên vất vả thế gian chuyển hóa thành những bài học giúp tôi mỗi ngày thêm vững vàng trên bước đường tu.
Và may mắn nữa là tôi có má…”
“ Quăng đời mình vào chốn thiền môn” của tác giả Thiện Bảo ghi lại tuổi thơ và quá trình trưởng thành, từng bước đạt được những thành quả và quá trình đó luôn có bóng dáng đồng hành của mẹ - người thân sinh ra thầy. Những khó khăn, vất vả, những giọt nước mắt, nụ cười hạnh phúc của “mẹ” luôn là động lực động viên thầy Thiện Bảo trên con đường tu tập.
-----------------------------
Mục lục
Đâu biết bến bờ còn xa lắc
Gia đình không yên ấm
Con có nhớ ba không?
Má soi cho anh em tôi rõ đường về
Thương vậy mà chẳng biết làm gì
An Hòa Tự - Chùa Bửu Thọ
Cho con đi tu nghen má?
Chùa Phổ Minh - duyên lành
Nhớ má nhớ chùa làng quê
Thực tế trần trụi
Thương con không nói thành lời
Thầy Bổn sư - hội ngộ & biệt ly
Niệm Phật đường Huệ Quang
Duyên kỳ diệu của má
Niệm Phật đường Nguyên Hương
Sóng gió thế gian
Gió thoảng mây bay
Tuổi trẻ loay hoay & tràn đầy nhiệt huyết
Má đang đứng xa xa sau tháp chuông chùa
Những kỷ niệm khó quên
Mình tới chùa mà còn để bụng giận hờn làm chi
Phật chủng tùng duyên khởi
Tôi làm công quả ở chùa Nguyên Hương
Chỉ biết lao vào công việc ở đâu đâu
Biết bao ân tình & tổn thương sâu
Con cảm ơn má nhiều lắm
Má hít thở cùng bầu không khí với người tu
Đồng đạo
-----------------------------
Trích đoạn sách
Cho con đi tu nghen má?
Một buổi chiều, khi má tôi đang ngồi sàng bắp chuẩn bị cho buổi chợ sáng mai, tôi ngồi nhìn má hai tay đều đều xoay cái giần, mớ mày bắp dần dần gom lại chính giữa và má chụm hai tay hốt hất mớ mày ra ngoài một cách gọn gàng,
Thấy má vui nên tôi buột miệng nói: “Cho con đi tu nghen má?
Cái giần trên tay ngừng khựng, má thừ người một hồi rồi bần thần nói: “Nhà có hai má con... Liệu đi tu có được không hay vì ham vui nay tu mai bỏ về thì mang tội.”
Có lẽ trong ý nghĩ của má, tôi là đứa con được nuông chiều từ nhỏ nên vô chùa sẽ khó mà chịu được sự cực nhọc, và má cũng muốn tôi ở nhà với má.
Má thốt hai tiếng “Tùy con” một cách cam lòng, đúng như tính ít nói của má và lòng thương con không nỡ can ngăn. Rồi thì má may cho tôi hai bộ áo vạt khách với hai cái quần lá nem và đưa tôi tới chùa.
Khi đó tôi chưa biết là tôi vừa quyết định một điều trọng đại của đời mình, chỉ là thích ở chùa đọc kinh mà thôi, chưa hề có ý thức về tu hành như thế nào, chưa từng ở chùa ngày nào, không hiểu sự đi tu để làm gì. Chỉ biết khởi tâm thích tiếng mõ chuông và tiếng bảo chung mỗi khi đến thời công phu chiều.
Ngày rằm tháng Tư năm 1963 thầy tổ chức lễ xuất gia cho tôi, rất đơn sơ, chỉ có má tôi chứng kiến. Thầy mời má tôi nguyện hương trước chánh điện nhưng má tôi từ chối vì “Con tôi muốn đi tu, tôi bằng lòng nhưng nó còn quá nhỏ không biết vô chùa ở được bao lâu, tôi không thể phát nguyện cho con, lỡ mai mốt nó tu không được tôi lại mang tội thất hứa với Phật.”
Thầy cạo tóc tôi chừa lại một cái vá ở chỏm, vài ngày sau, thầy dẫn tôi ra chùa Bửu Khánh, sư ông Thiện Đức ở đó đặt cho tôi pháp danh Thiện Bảo. Từ đó tôi trở thành một chú đạo ngày ngày quanh quẩn mái chùa làng quê.
Thời gian biểu của tôi có thêm ba thời khóa tụng kinh công phu chiều, tịnh độ buổi tối và công phu khuya. Chiều, đi học về, ăn cơm, tụng kinh xong thì hai chú đạo kia vì đã nghỉ học nên đi ngủ sớm, còn lại mình tôi với cây đèn dầu ngồi học bài làm bài trên trường, bốn giờ sáng thức dậy công phu, sau đó tôi chạy về nhà phụ má bưng mấy thau bắp đem xuống xuồng qua chợ bán, phần má thì luôn để dành lại cho tôi một dĩa cơm cháy bắp là món tôi thích. Ăn sáng ở nhà xong, tôi chạy về chùa quét dọn và cùng với hai chú đạo nấu cơm trưa. Bữa cơm chùa quê đơn giản chỉ có rau lang luộc, canh khoai lang nấu với bù ngót, có hôm là bông súng nấu canh hoặc rau muống luộc chấm tương chao... Ăn trưa xong thì tôi đi học trường làng như thường lệ. Mấy đứa bạn học cùng lớp hay nhìn chỏm tóc của tôi mà tò mò đủ chuyện, có đứa còn hỏi “Má mày đuổi không cho mày ở nhà hả?” Cô giáo Thể thì nhẹ nhàng hơn “Tại sao em đi tu?” Tôi không biết trả lời ra sao, chỉ cười và lặng thinh.
[…]
Nếu không có duyên sâu dày với Phật Pháp có lẽ đường tu của tôi chỉ là ông thầy cúng nhà quê dốt nát dựa dẫm kinh Phật làm kế mưu sinh. Quanh tôi là những người dân quê đến chùa vào ngày mùng một và rằm để cầu xin Trời Phật gia hộ, họ cần có ông thầy tu để khi đám tang tụng kinh cho người chết, đốt vàng mã, cúng tuần thất.
Vậy thôi.
Và nếu không có sự trợ giúp của má… Những khi nhớ lại, tôi tự hỏi nếu không có má thì chẳng biết đoạn đường tu đó của tôi đã rẽ qua lối nào?
Tuổi mười lăm, không có thầy dạy dỗ hướng dẫn cũng không hiểu biết gì về đời sống của người xuất gia và rồi một thân một mình ở một chùa... Có người tới chùa còn gọi tôi bằng tên tục như con cháu trong nhà là thằng Khánh chứ có mấy ai biết tới pháp danh Thiện Bảo!
Má đem đồ đạc ở nhà tới, bàn ghế và cả bộ ván trước đây ba hay nằm… Má sắp xếp bày biện cho ngôi chùa được tươm tất. Ban đầu, khi thầy mới đi, má nấu cơm đem tới cho tôi, sau thì má xay lúa đem gạo tới chùa để đó, ngày ngày má tới nấu cơm. Mọi việc của chùa má đều cáng đáng. Sợ tôi một mình giải đãi ngủ quên nên bốn giờ sáng má xách cây đèn dầu tới chùa thức tôi dậy công phu, lạy Phật xong thì má tất tả đi về nhà để qua chợ bán… Má quay vòng vòng giữa việc đời và việc chùa, còn tôi thì vẫn tu một cách vô tư. Có những đêm, vừa xong đợt đạn pháo vang trời không khí còn nồng nặc mùi thuốc súng, tôi nghe tiếng gõ khe khẽ cùng với ánh đèn vàng thấp thoáng qua khe cửa và giọng má thì thào “Khánh ơi con có sao không?” Là má sợ lỡ tên bay đạn lạc trúng ngôi chùa nhỏ nên dù đạn vẫn còn nổ đì đùng má vẫn xách cây đèn bươn bả trong đêm tới chùa, tận mắt nhìn thấy tôi vẫn bình thường thì má mới yên tâm quay về nhà. Nhiều lần tôi nói: “Má đừng đi ra đường giờ này nguy hiểm lắm.” Má gật đầu, ờ ờ... Rồi thì vẫn vậy, sau mỗi đợt súng đạn vang trời thì má lại đi tới chùa rón rén gõ cửa và thì thào gọi xem tôi có ổn không.