“Trong đây chẳng có chút khoa trương hay ví von nào, không ngôn từ hoa mĩ, lạc đề hay mô tả thừa thãi. Mọi sự việc đều trực tiếp dẫn đến thảm hoạ.”
Ở một cõi xa xôi thời Trung Cổ, Manfred – chủ nhân của lâu đài Otranto – từ lâu đã sống trong nỗi sợ hãi về một lời tiên tri cổ xưa, rằng khi gia tộc của ông ta tuyệt diệt, chủ nhân thật sự của lâu đài sẽ xuất hiện và giành lại nó. Trong nỗ lực tuyệt vọng để giữ lâu đài, Manfred âm mưu ép buộc nàng thiếu nữ Isabella, vốn là vị hôn thê của con trai ông ta, kết hôn với mình.
Isabella nhất mực không chịu thuận theo ý định trái luân thường đạo lí kia. Song khi cô chạy trốn vào sâu trong lâu đài, Manfred có vẻ không còn là mối nguy duy nhất. Những trùng hợp rùng rợn, các cuộc viếng thăm ma quái, khám phá thần bí và một cuộc chiến đầy bạo lực đã kết lại thành hỗn hợp của hãi hùng và khiếp đảm. Toà lâu đài Otranto dường như sở hữu linh hồn trong nó, và thứ đấy đang tìm kiếm sự trả thù cho những tội lỗi trong quá khứ.
---
Trong Lâu đài Otranto, Horace Walpole đã kết hợp nhiều mô típ văn học cổ đại và hiện đại đương thời. Ông lấy các yếu tố ảo diệu và siêu nhiên từ những mối tình lãng mạn thời Trung Cổ ở thế kỉ 12 và 13, rồi pha trộn chúng với các yếu tố hư cấu hiện thực đương đại của thế kỉ 18. Bằng cách ấy, Walpole đã giữ được cái giả trong cái có thực. Ông dựng lên một thế giới có các nhân vật chân thực dựa trên cơ sở thực tế, và nhờ vào việc cài cắm các yếu tố siêu nhiên vào thế giới này, Walpole đã bẻ cong hiện thực một cách hiệu quả. Ông dung hoà tự nhiên với siêu nhiên, và về cơ bản, đã tạo ra một thể loại văn học kì ảo mới: tưởng tượng dựa trên thực tế.
Rất nhiều thủ pháp xây dựng cốt truyện và tuyến nhân vật của Horace Walpole đã trở thành điển hình cho dòng văn học Gothic. Danh tính được giấu kín, lối đi bí mật, thế lực siêu phàm và những nàng thiếu nữ gặp nạn đều là những điểm nổi bật xuất hiện trong các tiểu thuyết Gothic sau này. Lâu đài Otranto đã đánh dấu sự khởi đầu thịnh vượng của thể dòng tiểu thuyết trên. Bất chấp những phản ứng trái chiều từ độc giả và các nhà phê bình đương thời, cuốn tiểu thuyết này của Horace Walpole đã được tái bản vào tháng Tư năm 1765, chỉ vài tháng sau khi xuất bản lần đầu vào cuối năm 1764.