Thật khó để có thể xếp loại tư tưởng Schopenhauer vào một trường phái triết học nào, dầu rằng nhiều thế hệ sau cho rằng ông là một nhà triết học duy tâm hay một số học giả coi các công trình triết học của ông là ví dụ điển hình của chủ nghĩa bi quan triết học. Sinh năm 1788, hành trình triết học của Schopenhauer được hình thành giữa các dòng chảy trí tuệ của châu Âu đầu thế kỷ 19, thời kỳ được đánh dấu bởi sự thống trị của Chủ nghĩa Ý niệm Đức (hay vẫn được dịch là chủ nghĩa Duy tâm Đức), đặc biệt là các triết học của Hegel và Kant. Các tác phẩm của ông là sự đáp lại các xu hướng duy lý và duy tâm đang thịnh hành, kết hợp ảnh hưởng đáng kể từ triết học phương Đông, một điều hiếm thấy trong tư tưởng phương Tây vào thời điểm đó.
Schopenhauer đã viết THẾ GIỚI NHƯ LÀ Ý CHÍ VÀ Ý NIỆM như một câu trả lời cho những gì ông cho là hạn chế của triết học Kant. Kant đã lập luận rằng thế giới mà chúng ta biết phần lớn được định hình bởi nhận thức của chúng ta. Schopenhauer đã phản biện lại điều này, đưa ra khái niệm về thế giới được điều khiển bởi một lực cơ bản, phi lý: Ý chí. Khái niệm này biểu thị một sự thoát ly khởi đầu triệt để khỏi các mô hình triết học đương thời, tập trung vào các lực phi lý cơ bản thúc đẩy sự tồn tại, thay vì các cấu trúc hợp lý. Tác phẩm được cấu trúc để đặt ra một nền tảng triết học toàn diện, không chỉ đề cập đến siêu hình học mà còn cả thẩm mỹ, đạo đức và tâm lý học. Cuộc khám phá của Schopenhauer về sự đau khổ, ham muốn của con người và sự phấn đấu không ngừng sẵn có trong cuộc sống đã gây được tiếng vang với nhiều người, đưa ra một cách mới để hiểu về thân phận con người.
Tác phẩm được viết trong thời kỳ có nhiều thử thách cá nhân và nghề nghiệp đối với Schopenhauer. Được xuất bản lần đầu vào năm 1818, sự đón nhận của nó khá thờ ơ, bị lu mờ bởi những triết lý thống trị của Hegel và những người đương thời khác. Tuy nhiên, Schopenhauer không nản lòng vẫn tiếp tục hoàn thiện ý tưởng của mình và với việc xuất bản phiên bản mở rộng vào năm 1844, tác phẩm của ông dần dần được công nhận.
THẾ GIỚI NHƯ LÀ Ý CHÍ VÀ Ý NIỆM phản ánh nỗ lực tìm hiểu thế giới và vị trí của Schopenhauer trong đó. Tác phẩm thách thức người đọc nhìn xa hơn bề mặt của thực tế và xem xét những động lực sâu xa làm nền tảng cho sự tồn tại của chúng ta. THẾ GIỚI NHƯ LÀ Ý CHÍ VÀ Ý NIỆM đánh dấu một bước khởi đầu đáng kể so với tư tưởng triết học truyền thống của phương Tây thế kỷ 19, khiến nó trở thành một trước tác mang tính đột phá và vượt thời gian.
Book Hunter xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam bản dịch đầy đủ của THẾ GIỚI NHƯ LÀ Ý CHÍ VÀ Ý NIỆM từ bản dịch tiếng Anh của R. B. Haldane, M.A. và J. Kemp, M.A gồm 4 quyển và các phụ lục bổ sung dày 1520 trang được Kegan Paul, Trench, Trübner & Co. xuất bản năm 1909 tại London bằng 3 volume, do Book Hunter thực hiện cùng dịch giả Thiên Trang – cái tên quen thuộc gắn liền với dự án Schopenhauer của Book Hunter. Mặc dù nhiều dịch giả tiếng Anh khác không đồng tình với cách dịch của Haldane, M.A. và J. Kemp, M.A nhưng chúng tôi thiết nghĩ đây là một bản dịch đáng để chúng ta tham khảo bên cạnh các bản dịch khác đã có trên thị trường sách Việt Nam.
Một số trích dẫn từ sách Thế Giới Như Là Ý Chí Và Ý Niệm
Động cơ không quyết định tính cách của con người, mà chỉ là hiện tượng tính cách của anh ta, nghĩa là hành động của anh ta; vỏ bên ngoài của cuộc sống của anh ta, không phải ý nghĩa và nội dung bên trong. Những điều này xuất phát từ tính cách là biểu hiện trực tiếp của ý chí, và do đó vô căn. Nhưng cho dù một người xấu thể hiện sự xấu xa của mình trong những hành động bất công nhỏ nhặt, những thủ đoạn hèn nhát và thấp kém trong hoàn cảnh của hắn, hay dưới tư cách là một kẻ chinh phục mà áp bức các quốc gia, ném thế giới vào cảnh lầm than đổ máu của hàng triệu người; thì đây là dạng thức bên ngoài của biểu hiện, điều không cần thiết đối với nó, phụ thuộc vào hoàn cảnh số phận, vào môi trường xung quanh, vào những ảnh hưởng bên ngoài, vào động cơ; nhưng quyết định của hắn về những động cơ này không bao giờ có thể được giải thích từ chúng; mà xuất phát từ ý chí, trong đó hắn là một biểu hiện. Trang 192
Tất cả mọi ý muốn phát sinh từ ham muốn, do đó sinh ra thiếu thốn, và do đó sinh ra đau khổ. Sự thỏa mãn của một điều ước kết thúc nó; tuy nhiên, đối với một mong muốn được thỏa mãn thì có tới ít nhất mười điều bị từ chối. Hơn nữa, mong muốn kéo dài, nhu cầu là vô hạn; sự hài lòng ngắn ngủi và được đo lường một cách sơ sài. Nhưng ngay cả sự hài lòng cuối cùng cũng đã được thoả mãn; thì mọi mong muốn được thỏa mãn cùng một lúc lại nhường chỗ cho một mong muốn mới; cả hai đều là ảo ảnh; cái này ta biết rồi, cái kia thì chưa. Không có đối tượng đạt được của ham muốn nào có thể mang lại sự hài lòng lâu dài, mà chỉ là một sự hài lòng thoáng qua; nó giống như của bố thí ném cho người ăn xin, giữ cho anh ta sống ngày hôm nay để sự khốn khổ của anh ta có thể lùi đến ngày mai. Do đó, khi mà ý thức của ta vẫn còn được lấp đầy bởi ý chí của chúng ta, khi mà chúng ta vẫn đầu hàng ham muốn với những hy vọng và nỗi sợ hãi liên tục, khi mà chúng ta là chủ thể của ý muốn, ta không bao giờ có thể có hạnh phúc lâu dài cũng như bình an. Trang 258
Tuy nhiên, ta thấy nhiều người trong số họ khi hoàn toàn mất hy vọng đã thay đổi theo cách được đề cập đến. Bây giờ họ cho thấy sự tốt lành thực sự và sự thanh tịnh của tâm tính, ghê tởm thực sự khi làm bất kỳ hành động xấu xa nào dù mức độ không đáng kể nhất. Họ tha thứ cho kẻ thù, ngay cả khi họ phải chịu đựng vô cớ; và họ làm vậy không phải qua lời nói đơn thuần và một loại sợ hãi đạo đức giả đối với các thẩm phán ở địa ngục, mà với sự tha thiết bên trong và thực tâm không muốn trả thù. Thật vậy, những đau khổ và cái chết cuối cùng trở nên ngọt ngào đối với họ, vì sự từ chối ý chí sống đã xuất hiện; họ thường từ chối sự giải thoát khi được đề nghị và chết một cách vui vẻ, bình an và hạnh phúc. Đối với họ, bí mật cuối cùng của cuộc sống đã bộc lộ trong nỗi đau quá mức; bí mật rằng sự khốn khổ và gian ác, đau khổ và thù hận, người đau khổ và kẻ gây ra đau khổ, cho dù chúng có thể xuất hiện khác nhau đối với sự hiểu biết tuân theo nguyên tắc đủ lý tính, thì tự chúng là một, biểu hiện của ý chí sống khách quan hóa xung đột của nó với chính nó bằng phương tiện nguyên tắc cá biệt hoá. Họ đã học được cách biết cả hai một cách đầy đủ ở mức độ cao nhất; và vì cuối cùng họ nhìn thấy danh tính của chúng và từ chối cả hai cùng một lúc; họ từ chối ý chí sống. Trong những huyền thoại và giáo điều họ giải thích lý do của họ cho kiến thức trực quan và trực tiếp này và cho sự thay đổi này là một vấn đề không quan trọng. Trang 504
Mục lục sách Thế Giới Như Là Ý Chí Và Ý Niệm
Lời nói đầu của hai dịch giả
Lời nói đầu của tác giả cho ấn bản đầu tiên
Lời nói đầu của tác giả cho tái bản
Quyển I: Thế giới như là Ý niệm
Khía cạnh đầu tiên. Ý niệm Tuân Theo Nguyên Tắc Đủ Lý Trí: Đối Tượng Của Kinh Nghiệm Và Khoa Học
Quyển II: Thế giới như là Ý chí
Khía cạnh đầu tiên. Sự khách quan của Ý Chí
Quyển III: Thế giới như là Ý Niệm
Khía cạnh thứ hai. Ý niệm Độc lập với Nguyên tắc Đủ Lý trí – Ý niệm Plato: Đối tượng của Nghệ thuật
Quyển IV: Thế giới như là Ý chí
Khía cạnh thứ hai. Sự Khẳng Định Và Phủ Nhận Ý Chí Sống, Khi Đã Có Ý Thức Về Bản Thân
Bổ sung cho quyển I và một phần quyển II
Phụ lục: Phê bình Triết học Kant
Bổ sung cho Quyển I
- Nửa đầu. Học thuyết về ý niệm về tri giác. (§ 1-7 của Tập đầu tiên.)
- Chương I: Lập trường của chủ nghĩa ý niệm
- Chương II: Học thuyết về Tri giác hay Kiến thức về Sự hiểu biết
- Chương III: Về Các Giác Quan
- Chương IV: Về Nhận thức tiên nghiệm
- Nửa thứ Hai. Học thuyết về Ý niệm Trừu tượng, hay Tư duy
- Chương V: Về trí tuệ phi lý
- Chương VI: Về học thuyết về tri thức trừu tượng hoặc duy lý
- Chương VII: Về mối quan hệ giữa tri thức cụ thể của tri giác với tri thức trừu tượng
- Chương VIII: Về lý thuyết tiếng cười (*)
- Chương IX: Về logic nói chung (*)
- Chương X: Về tam đoạn luận
- Chương XI: Về biện luận (*)
- Chương XII: Về học thuyết khoa học (*)
- Chương XIII: Về phương pháp toán học (*)
- Chương XIV: Về Liên kết Ý niệm
- Chương XV: Về những khuyết điểm cơ bản của trí tuệ
- Chương XVI: Về việc sử dụng thực tế của lý trí và về chủ nghĩa ẩn nhẫn (*)
- Chương XVII: Về nhu cầu siêu hình học của con người (*)
Bổ sung cho Quyển II
- Chương XVIII: Về khả năng biết vật-tự-thân (*)
- Chương XIX: Về tính ưu việt của ý chí trong tự ý thức (*)
- Chương XX: Sự khách thể hóa của ý chí trong động vật (*)
- Chương XXI: Nhìn lại và xem xét tổng quát hơn
- Chương XXII: Góc nhìn khách quan về trí tuệ (*)
- Chương XXIII: Về khách thể hóa ý chí trong bản tính vô thức (*)
- Chương XXIV: Về vật chất
- Chương XXV: Những cân nhắc siêu việt liên quan đến ý chí như vật-tự-thân
- Chương XXVI: Về mục đích luận (*)
- Chương XXVII: Về bản năng và khuynh hướng cơ học
- Chương XXVIII: Cá biệt hóa ý chí sống (*)
Bổ sung cho Quyển III
- Chương XXIX: Về nhận biết các ý niệm (*)
- Chương XXX: Về chủ thể kiến thức thuần túy (*)
- Chương XXXI: Về thiên phú (*)
- Chương XXXII: Về sự điên rồ (*)
- Chương XXXIII: Các nhận xét riêng lẻ về cái đẹp tự nhiên (*)
- Chương XXXIV: Về bản tính nội tâm của nghệ thuật (*)
- Chương XXXV: Về thẩm mỹ kiến trúc (*)
- Chương XXXVI: Những nhận xét riêng về tính thẩm mỹ của nghệ thuật tạo hình và tranh (*)
- Chương XXXVII: Về thẩm mỹ thơ ca (*)
- Chương XXXVIII: Về lịch sử (*)
- Chương XXXIX: Siêu hình âm nhạc (*)
Bổ sung cho Quyển IV
- Chương XL: Lời nói đầu
- Chương XLI: Cái chết và mối tương quan của nó với sự không thể phá hủy bản tính của ta (*)
- Chương XLII: Đời sống của loài
- Chương XLIII: Di truyền
- Chương XLIV: Siêu hình tình yêu hai giới
- Chương XLV: Sự khẳng định ý chí sống (*)
- Chương XLVI: Đau khổ và phù phiếm trong cuộc sống (*)
- Chương XLVII: Luân lý (*)
- Chương XLVIII: Giáo lý về sự chối bỏ ý chí sống (*)
- Chương XLIX: Con đường cứu độ
- Chương L: Triết học biểu sinh
Phụ lục
Tóm tắt
- Chương 1
- Chương 2
- Chương 3
- Chương 4
- Chương 5
- Chương 6
- Chương 7
- Chương 8